Đối với phụ nữ trong độ tuổi sinh sản mắc bệnh động kinh, tính an toàn của thuốc chống co giật là rất quan trọng đối với họ và con cái, vì thuốc thường được yêu cầu trong thời kỳ mang thai và cho con bú để giảm tác động của các cơn động kinh. Việc liệu việc điều trị bằng thuốc chống động kinh của mẹ trong thai kỳ có ảnh hưởng đến sự phát triển các cơ quan của thai nhi hay không vẫn là một mối quan tâm. Các nghiên cứu trước đây cho thấy trong số các thuốc chống co giật truyền thống, axit valproic, phenobarbital và carbamazepine có thể gây ra nguy cơ quái thai. Trong số các thuốc chống co giật mới, lamotrigine được coi là tương đối an toàn cho thai nhi, trong khi topiramate có thể làm tăng nguy cơ hở hàm ếch ở thai nhi.
Một số nghiên cứu về phát triển thần kinh đã chỉ ra mối liên quan giữa việc mẹ sử dụng axit valproic trong thai kỳ và suy giảm chức năng nhận thức, tự kỷ và rối loạn tăng động giảm chú ý (ADHD) ở con. Tuy nhiên, bằng chứng chất lượng cao về mối quan hệ giữa việc mẹ sử dụng topiramate trong thai kỳ và sự phát triển thần kinh của con vẫn chưa đủ. May mắn thay, một nghiên cứu mới được công bố tuần trước trên Tạp chí Y học New England (NEJM) đã mang đến cho chúng ta nhiều bằng chứng hơn nữa.
Trong thế giới thực, các thử nghiệm đối chứng ngẫu nhiên quy mô lớn là không thể đối với phụ nữ mang thai mắc bệnh động kinh, những người cần thuốc chống co giật để điều tra tính an toàn của thuốc. Do đó, sổ đăng ký thai kỳ, nghiên cứu đoàn hệ và nghiên cứu ca chứng đã trở thành các thiết kế nghiên cứu được sử dụng phổ biến hơn. Về mặt phương pháp luận, nghiên cứu này là một trong những nghiên cứu chất lượng cao có thể được triển khai hiện nay. Những điểm nổi bật của nó như sau: phương pháp nghiên cứu đoàn hệ mẫu lớn dựa trên dân số được áp dụng. Mặc dù thiết kế là hồi cứu, dữ liệu đến từ hai cơ sở dữ liệu quốc gia lớn của hệ thống Medicaid và Medicare của Hoa Kỳ đã được ghi danh trước đó, vì vậy độ tin cậy của dữ liệu cao; Thời gian theo dõi trung bình là 2 năm, về cơ bản đáp ứng thời gian cần thiết để chẩn đoán tự kỷ và gần 10% (tổng cộng hơn 400.000 trường hợp) đã được theo dõi trong hơn 8 năm.
Nghiên cứu bao gồm hơn 4 triệu phụ nữ mang thai đủ điều kiện, trong đó 28.952 người được chẩn đoán mắc bệnh động kinh. Phụ nữ được phân nhóm theo việc họ có đang dùng thuốc chống động kinh hay các loại thuốc chống động kinh khác sau 19 tuần thai kỳ (giai đoạn các khớp thần kinh tiếp tục hình thành). Topiramate nằm trong nhóm tiếp xúc, axit valproic nằm trong nhóm đối chứng dương tính, và lamotrigine nằm trong nhóm đối chứng âm tính. Nhóm đối chứng không tiếp xúc bao gồm tất cả phụ nữ mang thai không dùng bất kỳ loại thuốc chống động kinh nào từ 90 ngày trước kỳ kinh nguyệt cuối cùng đến thời điểm sinh (bao gồm cả động kinh không hoạt động hoặc chưa được điều trị).
Kết quả cho thấy tỷ lệ mắc tự kỷ tích lũy ước tính ở tuổi lên 8 là 1,89% ở tất cả các thế hệ con không tiếp xúc với bất kỳ loại thuốc chống động kinh nào; Trong số những đứa trẻ sinh ra từ mẹ bị động kinh, tỷ lệ mắc tự kỷ tích lũy là 4,21% (95% CI, 3,27-5,16) ở những trẻ không tiếp xúc với thuốc chống động kinh. Tỷ lệ mắc tự kỷ tích lũy ở những đứa trẻ tiếp xúc với topiramate, valproate hoặc lamotrigine lần lượt là 6,15% (95% CI, 2,98-9,13), 10,51% (95% CI, 6,78-14,24) và 4,08% (95% CI, 2,75-5,41).
So với thai nhi không tiếp xúc với thuốc chống co giật, nguy cơ tự kỷ được điều chỉnh theo điểm khuynh hướng như sau: 0,96 (95%CI, 0,56~1,65) ở nhóm tiếp xúc với topiramate, 2,67 (95%CI, 1,69~4,20) ở nhóm tiếp xúc với axit valproic và 1,00 (95%CI, 0,69~1,46) ở nhóm tiếp xúc với lamotrigine. Trong phân tích phân nhóm, các tác giả đã đưa ra kết luận tương tự dựa trên việc bệnh nhân có được điều trị đơn trị liệu hay không, liều lượng thuốc điều trị và liệu có tiếp xúc với thuốc liên quan trong giai đoạn đầu thai kỳ hay không.
Kết quả cho thấy con của những phụ nữ mang thai bị động kinh có nguy cơ mắc chứng tự kỷ cao hơn (4,21%). Cả topiramate và lamotrigine đều không làm tăng nguy cơ mắc chứng tự kỷ ở con của những bà mẹ dùng thuốc chống co giật trong thai kỳ; tuy nhiên, khi dùng axit valproic trong thai kỳ, nguy cơ mắc chứng tự kỷ ở con lại tăng lên phụ thuộc vào liều dùng. Mặc dù nghiên cứu chỉ tập trung vào tỷ lệ mắc chứng tự kỷ ở con của những phụ nữ mang thai dùng thuốc chống co giật và không đề cập đến các kết quả phát triển thần kinh phổ biến khác như suy giảm nhận thức ở con và ADHD, nhưng nó vẫn phản ánh độc tính thần kinh tương đối yếu của topiramate ở con so với valproate.
Topiramate thường không được coi là một sự thay thế thuận lợi cho natri valproate trong thai kỳ, vì nó có thể làm tăng nguy cơ sứt môi và vòm miệng và nhỏ so với tuổi thai. Ngoài ra, có những nghiên cứu cho thấy topiramate có thể làm tăng nguy cơ rối loạn phát triển thần kinh ở con cái. Tuy nhiên, nghiên cứu NEJM cho thấy nếu chỉ xem xét tác động đến sự phát triển thần kinh của con cái, đối với phụ nữ mang thai cần sử dụng valproate để chống co giật động kinh, thì cần phải làm tăng nguy cơ rối loạn phát triển thần kinh ở con cái. Topiramate có thể được sử dụng như một loại thuốc thay thế. Cần lưu ý rằng tỷ lệ người châu Á và các đảo Thái Bình Dương khác trong toàn bộ nhóm rất thấp, chỉ chiếm 1% toàn bộ nhóm và có thể có sự khác biệt về chủng tộc trong các phản ứng có hại với thuốc chống co giật, vì vậy liệu kết quả của nghiên cứu này có thể được mở rộng trực tiếp cho người châu Á (bao gồm cả người Trung Quốc) hay không cần được xác nhận bằng nhiều kết quả nghiên cứu hơn về người châu Á trong tương lai.
Thời gian đăng: 30-03-2024




