biểu ngữ trang

tin tức

Tuyên bố của Hoa Kỳ về việc chấm dứt "tình trạng khẩn cấp về sức khỏe cộng đồng" là một cột mốc trong cuộc chiến chống lại SARS-CoV-2. Vào thời kỳ đỉnh điểm, loại virus này đã giết chết hàng triệu người trên khắp thế giới, đảo lộn hoàn toàn cuộc sống và thay đổi căn bản hệ thống chăm sóc sức khỏe. Một trong những thay đổi dễ thấy nhất trong lĩnh vực chăm sóc sức khỏe là yêu cầu tất cả nhân viên phải đeo khẩu trang, một biện pháp nhằm thực hiện kiểm soát nguồn lây nhiễm và bảo vệ phơi nhiễm cho mọi người trong các cơ sở chăm sóc sức khỏe, do đó làm giảm sự lây lan của SARS-CoV-2 trong các cơ sở chăm sóc sức khỏe. Tuy nhiên, với việc chấm dứt "tình trạng khẩn cấp về sức khỏe cộng đồng", nhiều trung tâm y tế tại Hoa Kỳ hiện không còn yêu cầu tất cả nhân viên phải đeo khẩu trang nữa, quay trở lại (như trước khi xảy ra dịch bệnh) chỉ yêu cầu đeo khẩu trang trong một số trường hợp nhất định (chẳng hạn như khi nhân viên y tế điều trị các bệnh nhiễm trùng đường hô hấp có khả năng lây nhiễm).

Việc không còn yêu cầu đeo khẩu trang bên ngoài các cơ sở chăm sóc sức khỏe là hoàn toàn hợp lý. Khả năng miễn dịch có được từ việc tiêm chủng và nhiễm virus, cùng với sự sẵn có của các phương pháp chẩn đoán nhanh chóng và các lựa chọn điều trị hiệu quả, đã làm giảm đáng kể tỷ lệ mắc bệnh và tử vong liên quan đến SARS-CoV-2. Hầu hết các trường hợp nhiễm SARS-CoV-2 không gây khó chịu hơn cúm và các loại virus đường hô hấp khác mà hầu hết chúng ta đã phải chịu đựng quá lâu đến mức không còn cảm thấy bắt buộc phải đeo khẩu trang.

Nhưng phép so sánh này không hoàn toàn đúng với chăm sóc sức khỏe, vì hai lý do. Thứ nhất, bệnh nhân nhập viện khác với nhóm dân số không nhập viện. Đúng như tên gọi, bệnh viện tập trung những người dễ bị tổn thương nhất trong toàn xã hội, và họ đang ở trong tình trạng rất dễ bị tổn thương (tức là tình trạng khẩn cấp). Vắc-xin và phương pháp điều trị chống lại SARS-CoV-2 đã làm giảm tỷ lệ mắc bệnh và tử vong liên quan đến nhiễm SARS-CoV-2 ở hầu hết các nhóm dân số, nhưng một số nhóm dân số vẫn có nguy cơ mắc bệnh nặng và tử vong cao hơn, bao gồm người cao tuổi, nhóm dân số suy giảm miễn dịch và những người mắc các bệnh lý nền nghiêm trọng, chẳng hạn như bệnh phổi mãn tính hoặc bệnh tim. Những thành viên trong nhóm dân số này chiếm một tỷ lệ lớn bệnh nhân nhập viện tại bất kỳ thời điểm nào, và nhiều người trong số họ cũng thường xuyên đến khám ngoại trú.

Thứ hai, nhiễm trùng bệnh viện do các loại virus đường hô hấp khác ngoài SARS-CoV-2 gây ra rất phổ biến nhưng lại ít được quan tâm, cũng như những tác động tiêu cực mà các loại virus này có thể gây ra cho sức khỏe của những bệnh nhân dễ bị tổn thương. Cúm, virus hợp bào hô hấp (RSV), metapneumovirus ở người, virus parinfluenza và các loại virus đường hô hấp khác có tần suất lây truyền bệnh viện và các cụm ca bệnh cao đáng ngạc nhiên. Ít nhất một trong năm trường hợp viêm phổi mắc phải tại bệnh viện có thể do virus gây ra, chứ không phải do vi khuẩn.

 1

Ngoài ra, các bệnh liên quan đến virus đường hô hấp không chỉ giới hạn ở viêm phổi. Virus này còn có thể làm trầm trọng thêm các bệnh lý nền của bệnh nhân, gây ra những tác hại nghiêm trọng. Nhiễm virus đường hô hấp cấp tính được biết đến là nguyên nhân gây ra bệnh phổi tắc nghẽn, suy tim cấp, loạn nhịp tim, thiếu máu cục bộ, các biến cố thần kinh và tử vong. Chỉ riêng bệnh cúm đã gây ra tới 50.000 ca tử vong tại Hoa Kỳ mỗi năm. Các biện pháp nhằm giảm thiểu tác hại liên quan đến cúm, chẳng hạn như tiêm chủng, có thể làm giảm tỷ lệ thiếu máu cục bộ, loạn nhịp tim, đợt cấp suy tim và tử vong ở những bệnh nhân có nguy cơ cao.

Từ những góc độ này, việc đeo khẩu trang tại các cơ sở chăm sóc sức khỏe vẫn hợp lý. Khẩu trang giúp giảm sự lây lan của virus đường hô hấp từ cả những người đã được xác nhận nhiễm bệnh và chưa được xác nhận nhiễm bệnh. SARS-CoV-2, virus cúm, RSV và các loại virus đường hô hấp khác có thể gây ra các ca nhiễm nhẹ và không triệu chứng, vì vậy nhân viên và khách đến thăm có thể không biết mình đã nhiễm bệnh, nhưng những người không có triệu chứng và tiền triệu chứng vẫn có khả năng lây nhiễm và có thể lây nhiễm cho bệnh nhân.

GNhìn chung, tình trạng “có mặt” (đi làm dù cảm thấy không khỏe) vẫn còn phổ biến, bất chấp việc lãnh đạo hệ thống y tế liên tục yêu cầu nhân viên có triệu chứng ở nhà. Ngay cả trong thời kỳ đỉnh điểm của dịch bệnh, một số hệ thống y tế đã báo cáo rằng 50% nhân viên được chẩn đoán mắc SARS-CoV-2 vẫn đi làm khi có triệu chứng. Các nghiên cứu trước và trong thời gian bùng phát dịch cho thấy việc nhân viên y tế đeo khẩu trang có thể giảm khoảng 60% các ca nhiễm virus đường hô hấp mắc phải tại bệnh viện.%

293


Thời gian đăng: 22-07-2023